câu thơ về nguyễn du
người, Nguyễn Du còn tỏ ra là người vô cùng xuất sắc trong nghệ thuật miêu tả thiên nhiên. Bức tranh nào dưới ngịi bút của ơng cũng trở nên có thần, có hồn gửi gắm bao cảm xúc của nhân vật. Cảnh ngày xuân là bức tranh thiên nhiên như vậy, bức tranh ấy
-Vẻ đẹp TV miêu tả rõ nét, cụ thể từ khn mặt tròn đầy, ngời sáng, rạng rỡ trăng rằm; đến nụ cười tươi thắm hoa; giọng nói quý ngọc; tóc mềm mại, bồng bềnh mây da trắng tuyết -> Chân dung Thúy vân qua ngòi bút Nguyễn Du chân dung có nét có hình, có màu sắc, có âm
Đọc Thơ Xuân Của Thi Hào Nguyễn Du. 20/01/2014 12:00 SA (Xem: 31718) Nguyễn Phúc Vĩnh Ba. ĐỌC THƠ XUÂN CỦA THI HÀO NGUYỄN DU. Nguyễn Phúc Vĩnh Ba. Mùa xuân là một chủ đề được thi hào Nguyễn Du nhắc đến khá nhiều trong thơ chữ Hán của cụ. Lạ thay, đó là những mùa xuân tha
Tiếng thơ ai động đất trời. Nghe như non nước vọng lời nghìn thu. Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du. Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày. Hỡi người xưa của ta nay. Khúc vui xin lại so dây cùng Người! Sông Lam nước chảy bên đồi. Bỗng nghe trống giục ba hồi gọi quân
Thông qua 6 câu thơ đầu Kiều ở lầu Ngưng Bích đã nói lên hoàn cảnh vô cùng tội nghiệp, xót xa của Kiều khi bị bán vào lầu xanh. Bên cạnh đó, các em có thể tham khảo thêm bài phân tích tâm trạng Thúy Kiều, phân tích 8 câu thơ cuối…. để hiểu sâu sắc hơn về đoạn
Câu thơ này là Nguyễn Du tự thấy giữa lòng mình: Tiểu Thanh sống vào triều Minh, khi Nguyễn Du đọc bài ký viết về nàng, Tiểu Thanh “tử hậu” đã tới ba trăm năm, vậy mà khi biết chuyện đời Tiểu Thanh, Nguyễn Du vẫn xót xa: Son phấn (tài sắc người phụ nữ) có thần gây
Vay Tiền Online H5vaytien. 11/9/11 Vịnh cụ Tiên Điền Kính tặng Nguyễn Du và Truyện Kiều Cảo thơm lần giở trước đèn Là nhiều vàng đá, phải tìm trăng hoa Trăm năm trong cõi người ta Một thiên tuyệt bút, gọi là để sau Khen tài nhả ngọc phun châu Mười lăm năm ấy, biết bao nhiêu tình. Mấy lời kỳ cựu đinh ninh Rằng tài nên trọng mà tình nên thương Khen rằng giá đáng Thịnh Đường Thì trao giải nhất, chi nhường cho ai Gẫm âu người ấy, báu này Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào. Nặng vì chút nghĩa xưa sau Mà cho thiên hạ trông vào cũng hay Thương vui bởi tại lòng này Tan sương đầu ngõ, vén mây cuối trời Lòng thơ lai láng bồi hồi Tưởng người nên lại thấy người về đây... Viết trong một đêm cuối năm 1965, kỷ niệm 200 năm ngày sinh Nguyễn Du đăng trên số báo Tết Nguyên đán năm Bính Ngọ Sáng 30 tết, Thi sĩ Nguyễn Bính từ trần 11/9/11 Lục bát Tiên Điền Yến Thanh Làng tôi củ lạc thắt ngang Quả dưa buộc dọc cho chàng đi thi Ông Nghè, ông Cử vinh quy Cũng như hạt lúa ra đi Tiên Điền Chả cầy cầm lấy bút nghiên Chõng tre lều rạ… Mà nên danh làng Lay phay mấy hạt mưa nam Ướt câu phường vải trai làng lâm ly Giọt mưa "ngọn tiểu khê" đi Thành sông, thành biển, thành gì cũng đây… Bão xô nghiêng mảnh ruộng gầy Nắng hun đến cái diệp cày cũng cong Lụt mang đi hết của đồng Bao nhiêu hạt mẩy đi không… một về Bảy đời Tiến sỹ, quan Nghè Áo thâm, guốc mộc, roi tre, seo cày Long đong chừng ấy năm rày Trong Kiều có mẹ, mẹ nay có Kiều 11/9/11 Bên mộ cụ Nguyễn Du Vương Trọng Tưởng rằng phận bạc ạm Tiên Ngờ đâu cụ Nguyễn Tiên iền nằm đây Ngẩng trời cao, cúi đất dày Cắn môi tay nắm bàn tay của mình Một vùng cồn bãi trống trênh Cụ cùng thập loại chúng sinh nằm kề Hút tầm chẳng cánh hoa lê Bạch đàn đôi ngọn gió về nỉ non Xạc xào lá cỏ héo hon Bàn chân cát bụi, lối mòn nhỏ nhoi Lặng im bên nấm mộ rồi Chưa tin mình đã đến nơi mình tìm Không cành để gọi tiếng chim Không hoa cho bướm mang thêm nắng trời Không vầng cỏ ấm tay người Nén hương tảo mộ cắm rồi lại xiêu Thanh minh trong những câu Kiều Rưng rưng con đọc với chiều Nghi Xuân Cúi đầu tưởng nhớ vĩ nhân Phong trần còn để phong trần riêng ai Bao giờ cây súng rời vai Nung vôi, chở đá tượng đài xây lên Trái tim lớn giữa thiên nhiên Tình thương nối nhịp suốt nghìn năm xa... 11/9/11 Gặp Nguyễn Du trên sông đêm Nguyễn Việt Chiến Đêm mưa, gặp Nguyễn trên sông Đầu đội nón lá, chân không mang giày Ông ra câu cá sông này Một chiếc cần trúc phất đầy mưa đêm Ông dốc bầu rượu tưới lên Dòng sông mặt sách còn thiêm thiếp nằm Các người ngủ suốt trăm năm Nguồn thơ đã cạn, nguồn văn đã mòn Dậy đi thôi nước vẫn còn Sông vẫn đang chảy từ nguồn cội xa Sông là bạn học của ta Ta học sông cách phù sa đắp bồi Sông văn chảy dọc cuộc đời Nguyễn ngồi câu chữ dưới trời mưa đêm Có cô gái trẻ làng bên Ra sông giặt lụa vào đêm Nguyễn về Thế rồi đêm ấy bờ đê Mưa thì đã tạnh, trăng thề đã rơi Hình như họ đã thành đôi Sông thơ chảy suốt một trời Nguyễn Du "Truyện Kiều" ông viết trong mơ Ngoài sông tiếng đập lụa như vẫn còn Lụa như trăng giặt chẳng mòn Nàng Kiều đêm ấy vẫn còn trên sông Người lụa đã nhận ra ông Đầu đội nón lá, chân không mang giày Ông ra câu chữ sông này Một chiếc cần bút phất đầy trăng đêm 11/9/11 Mượn sóng Tiền Đường Nguyễn Vũ Tiềm Quê nhà nào thiếu gì sông nước Chẳng thiếu dòng sâu máu cuộn ngầu Sao không là sông Lam, sông Hương Sông nước mắt Phải mượn Tiền Đường gửi nỗi đau! Quê nhà nào thiếu gì tài sắc Hồng nhan chìm nổi dễ chưa nhiều? Sao không là Thị Kính, nàng Tô bạc phận Nước mắt phương Nam chảy ngược đến nàng Kiều? Tiếc như sông, để thương người như biển Từ hay Kim đều lận đận phong trần Lưỡi gươm cường bạo Hồ Tôn Hiến Có khi nào vắng bên cửa phòng văn! 11/9/11 Thăm mộ Nguyễn Du Hoàng trung Thông Thật kỳ lạ nơi Nguyễn Du nằm đó Cũng cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia Cũng nấm mộ sè sè ngọn cỏ Trong trang Kiều tôi đọc dưới đèn khuya. Không phải tiết sụt sùi tháng bảy Ánh chiều hè man mác hàng dương Đỉnh Hồng Lĩnh soi dòng Lam cuộn chảy Tiếng cuốc đào lách cách giữa đồng nương. Tìm mộ Nguyễn Du như Kim Trọng tìm Kiều Qua nhịp cầu ai đó ghé trông theo. Giữa khoai lúa Người nằm giản dị Phảng phất hương bay trong gió chiều. Tiếng người hát xưa thấm đầy nước mắt Thấm vị đời cay đắng khổ đau Hai thế kỷ đi qua trong nấm đất Mấy kiếp người, mấy cuộc bể dâu. Đời nay đẹp gấp mấy lần thưở trước Giở trang Kiều còn rung động ý thơ. Thơ Người mãi sống cùng đất nước Dù mai sau, dù có bao giờ... 08 - 1963 11/9/11 Lang thang Tiên Điền Nguyễn Quốc Anh Cành xoè gai, lá tốt um tùm hoa mọc như rừng nên gọi là hoa dại loài hoa này trong thơ Kiều chưa có dẫu tóc Người bạc trắng tuổi ba mươi Rằng mai sau dù có bao giờ... hoa được chở che - dịu dàng nụ tím những cánh nhỏ ôm nhau kín đáo bàn tay không thể vô tình Hai trăm năm - bao cuộc phai tàn những huệ, hồng, lay-ơn, sen, cúc hoa dại tốt như rừng che lối cát với câu thơ còn lại - Mai sau... Nâng cành hoa che nắng trên đầu tôi đi tìm em đường dài lầm lụi thấp thoáng rừng hoa tóc Người trắng xoá Bỗng thấy lòng dịu bớt nỗi lang thang Tiên Điền, 30-9-1989 11/9/11 Nguyễn Du Trần Nhuận Minh Đến đâu con cũng gặp Người Xin dâng chén rượu giữa trời Trung Hoa Hạc Vàng một bóng lầu xa Hồ Nam úa nắng chiều tà hanh heo Tiệc to thường ở nơi nghèo Đồng ngô khô xác, mái lều gió lay Người xưa đi sứ qua đây Bùn lưng bụng ngựa, sông đầy thuyền trôi Cỏ cây, thành lũy khác rồi Hoàng Hà đã cạn, thơ Người vẫn sâu Thời nào thì cũng như nhau Nỗi buồn li biệt, nỗi đau dối lừa Tiền Đường sầm sập đêm mưa Nước âm u chảy như chưa vớt Kiều Nghiệp Thành còn tiếng quạ kêu Lâm Tri bến cũ, cầu treo rực đèn Sắc tài chi để trời ghen Người đâu phải nước đánh phèn cho trong Cõi đời đâu cũng long đong Văn chương bạc phận, má hồng vô duyên Bời bời những cuộc đỏ đen Chính trường sấp mặt, đồng tiền xoay ngang Đặt chân lên đỉnh Thiên Đàn Bốn bề mây trắng thu vàng lá rơi... Bâng khuâng con lại thấy Người Vái Người, con đứng ngang trời Trung Hoa... Cố Cung, 21-9-1999 22/9/11 Gửi Kiều cho em năm đánh Mỹ Chế lan Viên Hai trăm năm ngày kỷ niệm Nguyễn Du Pháo sáng đốt trên nhà của Nguyễn Em có yên tâm để đọc Truyện Kiều Buổi trăng lửa chếch soi tiền tuyến? Gió mùa thu xào xạc hoa lau Anh qua nhà của Nguyễn chả dừng lâu Nhớ đến Nguyễn, ngước nhìn Hồng Lĩnh vậy Bến phà Vinh bom "cắt" hai đầu... Có ngờ đâu cồn cát trắng cây xanh Gặp Nguyễn nơi đây trên đất Quảng Bình Đất hỏa tuyến những chàng trai lớp bảy Lại ngâm Kiều sau một cuộc giao tranh Bốn phía ruộng đồng mái rạ bờ tre Trận địa nằm man mác giữa hương quê... Thơ dân tộc lẫn màu nâu dân dã Nên câu Kiều đồng vọng, họ còn nghe Đêm thắng giặc Bảo Ninh, mẹ Suốt ngâm Kiều Mẹ dám đâu quên cái thuở khổ nghèo Nhà ai đó lẩy Kiều, câu được, mất Mẹ nấp gốc dừa, nước mắt ràn theo "Thuyền ai thấp thoáng"... Đất trời về ta Nhật Lệ sông dài, đò mẹ lại qua Câu thơ Nguyễn cũng góp phần chống Mỹ Một mái chèo trong lửa đạn xông pha Hai trăm năm... ờ nhỉ... hai trăm năm Thuở vui buồn... Kiều sống giữa lòng dân Xưa tiếng võng ru hời đêm lạnh giá Nay cỏ mềm xanh nõn tận trời xuân Đất nước mình nghèo lắm, hỡi em yêu Cho đến giọt lệ cha ông cũng còn có ích với ta nhiều... Dẫu súng đạn nặng đường ra hỏa tuyến Đi đường dài, em giữ Truyện Kiều theo 22/9/11 Đọc Kiều I Chế Lan Viên Suốt mười năm tôi biếng đọc Nguyễn Du Quân thù ném bom xuống những làng quê ta đẹp nhất Kiều bó tròn trong những gói tản cư Bà ru cháu bằng ca dao sản xuất Thấy trăng lên tôi sợ ánh trăng ngời Tôi muốn luyện lòng tôi thành lửa sắt Không tiếc gì vừng trăng xẻ làm đôi Sợ bộ đội hành quân đi gặp giặc Mười năm qua, nay trở lại hòa bình Trăng ly biệt lại đoàn viên trước cửa Cảo thơm đặt trước đèn, tôi dở Mỗi trang Kiều rung một bóng trăng thanh Trạnh thương cô Kiều như đời dân tộc Sắc tài sao mà lại lắm truân chuyên Cành xuân phải trao tay khi nước mất Cỏ bên trời xanh một sắc Đạm Tiên Bỗng quý cô Kiều như đời dân tộc Chữ kiên trinh vượt trăm sóng Tiền Đường Chàng Kim đã đến tìm, lau giọt khóc Và lò trầm đêm ấy tỏa bay hương Tôi hiểu sao trong xà lim án chém Lý Tự Trọng trưa nao còn đọc trang Kiều Đảng dạy ta không thể đưa lòng đi theo Đảng Lại xa những gì dân tộc thương yêu Giá đem lòng tôi tôi đọc Nguyễn Du Có phải đã hiểu nhân dân mình thêm chút nữa? Hiểu giá khổ đau để thêm bừng ngọn lửa Nước mắt ta đem đổi máu quân thù Thôi vui lên! Hạnh phúc đến đây rồi Dẫu sống lại, cô Kiều không khổ nữa Cả nhân loại sắp đến ngày hội ngộ Nguyễn Du viết lại Kiều chắc sẽ có văn vui Ta cách xa nhau một tiếng nấc; một thôi đường Xưa Nguyễn khóc - thì nay ta đã hát Nhưng Truyện Kiều cứ để yên, không cần lau nước mắt Đời đang vui, đời sẽ viết thêm chương 22/9/11 Vịnh Thúy Kiều Nguyễn Công Trứ Đã biết má hồng thời phận bạc Trách Kiều nhi chưa vẹn tấm lòng vàng Chiếc quạt thoa đành phụ nghĩa Kim lang Nặng vì hiếu, nhẹ vì tình thời cũng phải Từ Mã Giám Sinh cho đến chàng Từ Hải Cánh hoa tàn đem bán lại chốn thanh lâu Bấy giờ Kiều còn hiếu vào đâu Mà bướm chán ong chường cho đến thế? Bạc mệnh chẳng lầm người tiết nghĩa Đoạn trường cho đáng kiếp tà dâm! Bán mình trong bấy nhiêu năm Đố đem chữ hiếu mà lầm được ai! Nghĩ đời mà ngán cho đời!
Nguyễn Du đóng góp lớn cho sự phát triển giàu đẹp của ngôn ngữ văn học tiếng Việt, câu thơ tiếng Việt trang nhã, diễm lệ nhờ vần luật chỉnh tề, ngắt nhịp đa dạng, vận dụng các phép tu từ đạt hiệu quả nghệ thuật cao qua những tác phẩm tiêu biểu của ông. Sau đây là tuyển chọn những câu thơ hay của Nguyễn Du với những vần thơ giản dị mà cô đọng, súc tích ẩn chứa những giá trị nhân văn còn sống mãi theo thời gian. Mời bạn cùng đón đọc! Tham khảo thêm Tuyển tập 30+ những bài thơ hay của Bác Hồ hay nhất mọi thời đại Tuyển chọn 15+ bài thơ hay của Tố Hữu sống mãi cùng thời gian Những câu thơ hay của Nguyễn Trãi khiến ta suy ngẫm Những bài thơ hay của Nguyễn Du Tuyển chọn thơ hay Nguyễn Du để bạn tìm đọc và tham khảo đều có đầy đủ tại đây, đọc xong những bài thơ Nguyễn Du hay này sẽ giúp bạn chiêm nghiệm và suy ngẫm nhiều điều về những triết lí nhân sinh, về cuộc đời, con người đã được thi nhân đúc kết từ ngàn đời nay. Độc Tiểu Thanh ký Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư Độc điếu song tiền nhất chỉ thư Chi phấn hữu thần liên tử hậu, Văn chương vô mệnh luỵ phần dư. Cổ kim hận sự thiên nan vấn, Phong vận kỳ oan ngã tự cư. Bất tri tam bách dư niên hậu, Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như? Dịch nghĩa Vườn hoa cạnh Tây Hồ đã thành bãi hoang, Ta chỉ viếng nàng qua bài ký đọc trước cửa sổ mà thôi. Son phấn có linh hồn chắc phải xót chuyện xảy ra sau khi chết, Văn chương không có mệnh mà cũng bị liên luỵ, đốt đi còn sót lại một vài bài. Mối hận cổ kim, thật khó mà hỏi ông trời. Ta tự coi như người cùng một hội, một thuyền với nàng là kẻ vì nết phong nhã mà mắc phải nỗi oan lạ lùng. Chẳng biết ba trăm năm sau nữa, Thiên hạ có ai khóc Tố Như ta? Long thành cầm giả ca Long thành giai nhân, Bất ký danh tự. ộc thiện huyền cầm, Cử thành chi nhân dĩ cầm danh. Học đắc tiên triều cung trung “Cung phụng” khúc, Tự thị thiên thượng nhân gian đệ nhất thanh. Dư tại thiếu niên tằng nhất kiến, Giám Hồ hồ biên dạ khai yến. Thử thời tam thất chánh phương niên, Xuân phong yểm ánh đào hoa diện. à nhan hám thái tối nghi nhân, Lịch loạn ngũ thanh tuỳ thủ biến. Hoãn như luơng phong độ tùng lâm, Thanh như chích hạc minh tại âm. Liệt như Tiến Phúc bi đầu toái phích lịch, Ai như Trang Tích bịnh trung vi Việt ngâm. Thính giả mỹ mỹ bất tri quyện, Tận thị Trung Hoà ại Nội âm. Tây Sơn chư thần mãn toạ tận khuynh đảo, Triệt dạ truy hoan bất tri hiểu. Tả phao hữu trịch tranh triền đầu, Nê thổ kim tiền thù thảo thảo. Hào hoa ý khí lăng công hầu, Ngũ Lăng niên thiếu bất túc đạo. Tính tương tam thập lục cung xuân, Hoán thủ Trường An vô giá bảo. Thử tịch hồi đầu nhị thập niên, Tây Sơn bại hậu dư Nam thiên. Chỉ xích Long Thành bất phục kiến, Hà huống thành trung ca vũ diên. Tuyên phủ sứ quân vị dư trùng mãi tiếu, Tịch trung ca kỹ giai niên thiếu. Tịch mạt nhất nhân phát bán hoa, Nhan xú thần khô hình lược tiểu. Lang tạ tàn my bất sức trang, Thuỳ tri tiện thị đương niên thành trung đệ nhất điệu. Cựu khúc tân thanh ám lệ thuỳ, Nhĩ trung tĩnh thính tâm trung bi. Mãnh nhiên ức khởi nhị thập niên tiền sự, Giám Hồ hồ biên tằng kiến chi. Thành quách suy di nhân sự cải, Kỷ độ tang điền biến thương hải. Tây Sơn cơ nghiệp nhất đán tận tiêu vong, Ca vũ không lưu nhất nhân tại. Thuấn tức bách niên tằng kỷ thì, Thương tâm vãng sự lệ triêm y. Nam Hà quy lai đầu tận bạch, Quái để giai nhân nhan sắc suy. Song nhãn trừng trừng không tưởng tượng, Khả liên đối diện bất tương tri. Dịch nghĩa Người đẹp Long Thành Họ tên không được biết Riêng thạo đàn huyền cầm Dân trong thành gọi nàng là cô Cầm Gảy khúc “Cung phụng” từ triều vua xưa Một khúc đàn hay tuyệt từ trời đưa xuống thế gian. Nhớ hồi trẻ tôi đã gặp nàng một lần Bên hồ Giám trong một đêm yến tiệc Tuổi cô cỡ hai mươi mốt Áo hồng ánh lên khuôn mặt đẹp như hoa Rượu đậm thêm nét mặt ngây thơ khả ái Ngón tay lướt năm cung réo rắt Tiếng khoan như gió thổi qua rừng thông Thanh trong như đôi hạc kêu nơi xa xôi Mạnh như sét đánh tan bia Tiến Phúc Sầu bi như Trang Tích lúc đau ốm ngâm rên tiếng Việt Người nghe nàng say sưa không biết mệt Trong khúc nhạc đại nội Trung Hoà. Quan tướng nhà Tây say rượu nghiêng ngả Lo vui chơi suốt đêm không nghỉ Bên phải bên trái tranh nhau cho thưởng Tiền bạc coi thường có nghĩa chi. Vẻ hào hoa hơn bậc vương hầu Giới trẻ nơi Ngũ Lăng không đáng kể Dường như ba mươi sáu cung xuân Nay Tràng An đã hun đúc được một báu vật vô giá. Trong đầu nhớ lại đã hai mươi năm Tây sơn thua bại, tôi vào Nam Long Thành gần mà cũng chẳng được thấy Còn nói chi đến chuyện múa hát trong thành. Nay Tuyên phủ sứ bày cuộc vui đãi tôi Ca kỹ trẻ xinh cả một đám Chỉ có một kẽ tóc hoa râm ngồi cuối phòng Mặt xấu, sắc khô, người hơi nhỏ Mày phờ phạc không điểm phấn tô son Sao mà đoán được người này là đệ nhất danh ca một thời. Điệu nhạc xưa làm ta thầm nhỏ lệ Lắng tai nghe lòng càng đau xót Tự nhiên nhớ lại hai mươi năm trước Bên hồ Giám trong dạ tiệc ta đã thấy nàng Thành quách đã chuyển, người cũng đổi thay Nương dâu trở thành biển cả đã nhiều Cơ nghiệp Tây sơn cũng đà tiêu tán Sót lại đây còn người múa ca. Thấm thoắt trăm năm có là bao Cảm thương chuyện cũ dùng áo thấm nước mắt Ta từ Nam trở lại, đầu bạc trắng Trách làm sao được sắc đẹp cũng suy tàn. Hai mắt trừng lên tưởng nhớ chuyện xưa Thương cho đối mặt mà chẳng nhìn nhận ra nhau. Đối tửu Phu toạ nhàn song tuý nhãn khai, Lạc hoa vô số há thương đài. Sinh tiền bất tận tôn trung tửu, Tử hậu thuỳ kiêu mộ thượng bôi? Xuân sắc tiệm thiên hoàng điểu khứ, Niên quang ám trục bạch đầu lai. Bách kỳ đãn đắc chung triêu tuý, Thế sự phù vân chân khả ai. Dịch nghĩa Ngồi xếp bằng tròn trước cửa sổ, rượu vào hơi say mắt lim dim, Vô số cánh hoa rơi trên thảm rêu xanh. Lúc sống không uống cạn chén rượu, Chết rồi, ai rưới trên mồ cho? Sắc xuân thay đổi dần, chim hoàng oanh bay đi, Năm tháng ngầm thôi thúc đầu bạc. Cuộc đời trăm năm, chỉ mong say suốt ngày. Thế sự như đám mây nổi, thật đáng buồn. Sở kiến hành Hữu phụ huề tam nhi Tương tương toạ đạo bàng Tiểu giả tại hoài trung ại giả trì trúc khuông Khuông trung hà sở thịnh Lê hoắc tạp tì khang Nhật án bất đắc thực Y quần hà khuông nhương Kiến nhân bất ngưỡng thị Lệ lưu khâm lang lang Quần nhi thả hỉ tiếu Bất tri mẫu tâm thương Mẫu tâm thương như hà Tuế cơ lưu dị hương Dị hương sảo phong thục Mễ giá bất thậm ngang Bất tích khí hương thổ Cẩu đồ cứu sinh phương Nhất nhân kiệt dung lực Bất sung tứ khẩu lương Duyên nhai nhật khất thực Thử kế an khả trường Nhãn hạ uỷ câu hác Huyết nhục tự sài lang Mẫu tử bất túc tuất Phủ nhi tăng đoạn trường Kỳ thống tại tâm đầu Thiên nhật giai vị hoàng Âm phong phiêu nhiên chí Hành nhân diệc thê hoàng Tạc tiêu Tây Hà dịch Cung cụ hà trương hoàng Lộc cân tạp ngư xí Mãn trác trần trư dương Trưởng quan bất hạ trợ Tiểu môn chỉ lược thường Bát khí vô cố tích Lân cẩu yếm cao lương Bất tri quan đạo thượng Hữu thử cùng nhi nương Thuỳ nhân tả thử đồ Trì dĩ phụng quân vương Dịch nghĩa Có người đàn bà dắt ba đứa con Cùng nhau ngồi bên đường ứa nhỏ trong bụng mẹ ứa lớn cầm giỏ tre Trong giỏ đựng gì lắm thế? Rau lê, hoắc lẫn cám Qua trưa rồi chưa được ăn Áo quần sao mà rách rưới quá Thấy người không ngẩng nhìn Nước mắt chảy ròng ròng trên áo Lũ con vẫn vui cười Không biết lòng mẹ đau Lòng mẹ đau ra sao? Năm đói lưu lạc đến làng khác Làng khác mùa màng tốt hơn Giá gạo không cao quá Không hối tiếc đã bỏ làng đi Miễn sao tìm được phương tiện sống Một người làm hết sức Không đủ nuôi bốn miệng ăn Dọc đường mỗi ngày đi ăn mày Cách ấy làm sao kéo dài mãi được Thấy trước mắt cái lúc bỏ xác bên ngòi rãnh Máu thịt nuôi lang sói Mẹ chết không thương tiếc Vỗ về con càng thêm đứt ruột Trong lòng đau xót lạ thường Mặt trời vì thế phải vàng uá Gió lạnh bỗng ào tới Người đi đường cũng đau đớn làm sao êm qua ở trạm Tây Hà Tiệc tùng cung phụng khoa trương quá mức Gân hươu cùng vây cá ầy bàn thịt heo, thịt dê Quan lớn không thèm đụng đũa ám theo hầu chỉ nếm qua Vứt bỏ không luyến tiếc Chó hàng xóm cũng ngán món ăn ngon Không biết trên đường cái Có mẹ con đói khổ nhà này Ai người vẽ bức tranh đó em dâng lên nhà vua Thôn dạ Thanh thảo thôn tiền ngoạ lão ông, Giang nam dạ sắc thướng liêm lung. Mãn thiên minh nguyệt nhất trì thuỷ, Bán bích hàn đăng vạn thụ phong. Lão khứ vị tri sinh kế chuyết, Chướng tiêu thời giác túc tâm không. Niên niên kết đắc ngư tiều lữ, Tiếu ngạo hồ yên dã thảo trung. Dịch nghĩa Phía trước thôn Thanh Thảo có một ông già nằm khoèo, Bóng tối trên bờ sông nam đã phủ dần lên bức mành. Vầng trăng sáng đầy trời rọi xuống mặt nước ao, Ngọn đèn lạnh treo trên vách leo lét trước làn gió muôn cây. Già rồi mà vẫn chưa biết mình vụng đường sinh kế, Hết nghhiệp chướng mới thấy tấm lòng xưa nhẹ nhõm. Làm bạn với khách tiều ngư hết năm này sang năm khác, Và cười ngạo nghễ giữa khói mặt hồ và đồng cỏ nội. Khất thực Tằng lăng trường kiếm ỷ thanh thiên, Triển chuyển nê đồ tam thập niên. Văn tự hà tằng vi ngã dụng ? Cơ hàn bất giác thụ nhân liên! Dịch nghĩa Tựa kiếm dài, ngạo nghễ nhìn trời xanh, Lăn lộn trong đám bùn dơ ba mươi năm nay. Văn chương nào đã dùng được việc gì cho ta ? Đâu ngờ phải đói rét để người thương Vọng Phu thạch Thạch da? Nhân da? Bỉ hà nhân? Độc lập sơn đầu thiên bách xuân Vạn kiếp diểu vô vân vũ mộng, Nhất trinh lưu đắc cổ kim thân. Lệ ngân bất tuyệt tam thu vũ, Đài triện trường minh nhất đoạn văn. Tứ vọng liên sơn diểu vô tế, Độc giao nhi nữ thiện di luân. Dịch nghĩa Đá chăng? Người chăng? Là ai đấy nhỉ? Đứng một mình trên ngọn núi hàng ngàn năm nay. Muôn kiếp không bao giờ có mộng mây mưa, Tấm thân giữ được trinh tiết mãi mãi. Mưa thu như dòng lệ chảy không ngớt, Lớp rêu như ghi lại một bài văn ca tụng nàng. Nhìn bốn phía núi non từng từng lớp lớp, Luân thường chỉ dành riêng cho bạn gái chăng? Thác lời trai phường nón Tiếc thay duyên Tấn phận Tần, Chưa quen đã lạ chưa gần đã xa. Chưa chi đông đã rạng ra, Đến giờ vẫn giận con gà chết toi. Tím gan cho cái sao Mai, Thảo nào vác búa chém trời cũng nên. Về qua liếc mắt trông miền, Lời oanh giọng ví chưa yên dằm ngồi. Giữa thềm tàn đuốc còn tươi, Bã trầu chưa quét nào người tình chung. Hồng Sơn cao ngất mấy trùng, Đò Cài mấy trượng thì tình bấy nhiêu. Làm chi cắc cớ lắm điều, Mới đêm hôm trước lại chiều hôm nay. Khi xa xa đến thế này, Tiếng xa nghe hãy rù rì bên tai. Quê nhà nắng sớm mưa mai, Đã buồn giở đến lịp tơi càng buồn. Thờ ơ bó vọt đống sườn, Đã nhàm bẹ móc lại hờn nắm giang. Trăng tà chênh chếch bóng vàng, Dừng chân thoạt nhớ đến đàng cửa truông. Thẩn thơ gối chiếc màn suông, Rối lòng như sợi ai guồng cho xong. Phiên nào chợ Vịnh ra trông, Mồng ba chẳng thấy lại hòng mười ba. Càng trông càng chẳng thấy ra, Cơi trầu quyệt đã vài và lần ôi. Tưởng rằng nói thế mà chơi. Song le đã động lòng người lắm thay. Trông trời trời cách tầng mây, Trông trăng trăng hẹn đến ngày ba mươi. Vô tình trăng cũng như người, Một ta ta lại ngậm cười chuyện ta. Hồi 01 Truyện Kiều năm trong cõi người ta, Chữ tài, chữ mệnh khéo là ghét nhau. Trải qua một cuộc bể dâu. Những điều trông thấy mà đau đớn lòng. 5. Lạ gì bỉ sắc tư phong, Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen. Cảo thơm lần giở trước đèn, Phong tình có lục còn truyền sử xanh. Rằng năm Gia Tĩnh triều Minh, 10. Bốn phương phẳng lặng, hai kinh vững vàng. Có nhà viên ngoại họ Vương, Gia tư nghĩ cũng thường thường bậc trung, Một trai con thứ rốt lòng, Vương Quan là chữ, nối dòng nho gia. 15. Đầu lòng hai ả tố nga, Thuý Kiều là chị, em là Thuý Vân. Mai cốt cách, tuyết tinh thần. Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười. Vân xem trang trọng khác vời, 20. Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang. Hoa cười, ngọc thốt, đoan trang, Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da. Kiều càng sắc sảo mặn mà, So bề tài sắc vẫn là phần hơn. 25. Làn thu thuỷ, nét xuân sơn, Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh. Một hai nghiêng nước nghiêng thành, Sắc đành đòi một, tài đành hoạ hai. Thông minh vốn sẵn tính trời, 30. Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm. Cung, thương làu bậc ngũ âm, Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương. Khúc nhà tay lựa nên chương, Một thiên “Bạc mệnh” lại càng não nhân. 35. Phong lưu rất mực hồng quần, Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê Êm đềm trướng rủ màn che, Tường đông ong bướm đi về mặc ai. Văn tế thập loại chúng sinh 1. Tiết tháng Bảy mưa dầm sùi sụt, Toát hơi may lạnh buốt xương khô, Não người thay buổi chiều thu, Ngàn lau nhuốm bạc, lá ngô rụng vàng. 5. Đường bạch dương bóng chiều man mác, Ngọn đường lê lác đác sương sa, Lòng nào là chẳng thiết tha, Cõi dương còn thế nữa là cõi âm. Trong trường dạ tối tăm trời đất, 10. Có khôn thiêng phảng phất u minh, Thương thay thập loại chúng sinh, Hồn đơn phách chiếc lênh đênh quê người. Hương khói đã không nơi nương tựa, Hồn mồ côi lần lữa đêm đen, 15. Còn chi ai quí ai hèn, Còn chi mà nói ai hiền ai ngu? Tiết đầu thu lập đàn giải thoát Nước tĩnh bình rưới hạt dương chi Muôn nhờ đức Phật từ bi, 20. Giải oan, cứu khổ, hồn về tây phương. Cũng có kẻ tính đường kiêu hãnh, Chí những lăm cướp gánh non sông, Nói chi những buổi tranh hùng Tưởng khi thế khuất vận cùng mà đau. 25. Bỗng phút đâu mưa sa ngói lở Khôn đem mình làm đứa sất phu, Lớn sang giàu nặng oán thù, Máu tươi lai láng, xương khô rã rời. Đoàn vô tự lạc loài nheo nhóc, 30. Quỷ không đầu than khóc đêm mưa Cho hay thành bại là cơ Mà cô hồn biết bao giờ cho tan! Cũng có kẻ màn lan trướng huệ, Những cậy mình cung quế Hằng Nga, 35. Một phen thay đổi sơn hà, Mảnh thân chiếc lá biết là về đâu? Trên lầu cao dưới cầu nước chảy Phận đã đành trâm gãy bình rơi, Khi sao đông đúc vui cười, 40. Mà khi nhắm mắt không người nhặt xương. Đau đớn nhẽ không hương không khói, Luống ngẩn ngơ dòng suối rừng sim. Thương thay chân yếu tay mềm Càng năm càng héo, một đêm một rầu. 45. Kìa những kẻ mũ cao áo rộng, Ngọn bút son thác sống ở tay, Kinh luân găm một túi đầy, Đã đêm Quản Cát lại ngày Y Chu. Thịnh mãn lắm oán thù càng lắm, 50. Trăm loài ma mồ nấm chung quanh, Nghìn vàng khôn đổi được mình Lầu ca, viện hát, tan tành còn đâu? Kẻ thân thích vắng sau vắng trước Biết lấy ai bát nước nén nhang? 55. Cô hồn thất thểu dọc ngang, Nặng oan khôn nhẽ tìm đường hoá sinh. Kìa những kẻ bài binh bố trận Đem mình vào cướp ấn nguyên nhung. Gió mưa sấm sét đùng đùng, 60. Dãi thây trăm họ nên công một người. Khi thất thế tên rơi đạn lạc, Bãi sa trường thịt nát máu rơi, Bơ vơ góc bể chân trời, Nắm xương vô chủ biết vùi nơi nao? 65. Trời thăm thẳm mưa gào gió thét, Khí âm huyền mờ mịt trước sau, Ngàn mây nội cỏ rầu rầu, Nào đâu điếu tế, nào đâu chưng thường? Cũng có kẻ tính đường trí phú, 70. Mình làm mình nhịn ngủ kém ăn, Ruột rà không kẻ chí thân Dẫu làm nên để dành phần cho ai? Khi nằm xuống không người nhắn nhủ, Của phù du dẫu có như không, 75. Sống thời tiền chảy bạc ròng, Thác không đem được một đồng nào đi. Khóc ma mướn, thương gì hàng xóm Hòm gỗ đa bó đóm đưa đêm Ngẩn ngơ trong quảng đồng chiêm, 80. Nén hương giọt nước, biết tìm vào đâu? Cũng có kẻ rắp cầu chữ quý Dấn mình vào thành thị lân la, Mấy thu lìa cửa lìa nhà, Văn chương đã chắc đâu mà trí thân? 85. Dọc hàng quán phải tuần mưa nắng, Vợ con nào nuôi nấng khem kiêng, Vội vàng liệm sấp chôn nghiêng, Anh em thiên hạ láng giềng người dưng. Bóng phần tử xa chừng hương khúc 90. Bãi tha ma kẻ dọc người ngang, Cô hồn nhờ gửi tha phương, Gió trăng hiu hắt, lửa hương lạnh lùng. Cũng có kẻ vào sông ra bể, Cánh buồm mây chạy xế gió đông 95. Gặp cơn giông tố giữa dòng, Đem thân vùi rấp vào lòng kình nghê. Cũng có kẻ đi về buôn bán, Đòn gánh tre chín dạn hai vai, Gặp cơn mưa nắng giữa trời, 100. Hồn đường phách sá lạc loài nơi nao? Cũng có kẻ mắc vào khoá lính, Bỏ cửa nhà đi gánh việc quan, Nước khe cơm ống gian nan, Dãi dầu nghìn dặm lầm than một đời. 105. Buổi chiến trận mạng người như rác, Phận đã đành đạn lạc tên rơi. Lập loè ngọn lửa ma trơi, Tiếng oan văng vẳng tối trời càng thương. Cũng có kẻ nhỡ nhàng một kiếp, 110. Liều tuổi xanh buôn nguyệt bán hoa, Ngẩn ngơ khi trở về già, Đâu chồng con tá biết là cậy ai? Sống đã chịu một đời phiền não Thác lại nhờ hớp cháo lá đa, 115. Đau đớn thay phận đàn bà, Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu? Cũng có kẻ nằm cầu gối đất, Dõi tháng ngày hành khất ngược xuôi, Thương thay cũng một kiếp người, 120. Sống nhờ hàng xứ, chết vùi đường quan! Cũng có kẻ mắc oan tù rạc Gửi mình vào chiếu rách một manh. Nắm xương chôn rấp góc thành, Kiếp nào cởi được oan tình ấy đi? 125. Kìa những đứa tiểu nhi tấm bé, Lỗi giờ sinh lìa mẹ lìa cha. Lấy ai bồng bế vào ra, U ơ tiếng khóc thiết tha nỗi lòng. Kìa những kẻ chìm sông lạc suối, 130. Cũng có người sẩy cối sa cây, Có người leo giếng đứt dây, Người trôi nước lũ kẻ lây lửa thành. Người thì mắc sơn tinh thuỷ quái Người thì sa nanh sói ngà voi, 135. Có người hay đẻ không nuôi, Có người sa sẩy, có người khốn thương. Gặp phải lúc đi đường lỡ bước Cầu Nại Hà kẻ trước người sau Mỗi người một nghiệp khác nhau 140. Hồn xiêu phách tán biết đâu bây giờ? Hoặc là ẩn ngang bờ dọc bụi, Hoặc là nương ngọn suối chân mây, Hoặc là bụi cỏ bóng cây, Hoặc nơi quán nọ cầu này bơ vơ. 145. Hoặc là nương thần từ, Phật tự Hoặc là nơi đầu chợ cuối sông Hoặc là trong quãng đồng không, Hoặc nơi gò đống, hoặc vùng lau tre. Sống đã chịu nhiều bề thảm thiết, 150. Gan héo khô dạ rét căm căm, Dãi dầu trong mấy mươi năm, Thở than dưới đất, ăn nằm trên sương. Nghe gà gáy tìm đường lánh ẩn, Lặn mặt trời lẩn thẩn tìm ra, 155. Lôi thôi bồng trẻ dắt già, Có khôn thiêng nhẽ lại mà nghe kinh. Nhờ phép Phật siêu sinh tịnh độ, Phóng hào quang cứu khổ độ u, Rắp hoà tứ hải quần chu, 160. Não phiền rũ sạch, oán thù rửa không. Nhờ đức Phật thần thông quảng đại, Chuyển pháp luân tam giới thập phương, Nhơn nhơn Tiêu Diện đại vương, Linh kỳ một lá dẫn đường chúng sinh. 165. Nhờ phép Phật uy linh dũng mãnh, Trong giấc mê khua tỉnh chiêm bao, Mười loài là những loài nào? Gái trai già trẻ đều vào nghe kinh. Kiếp phù sinh như hình bào ảnh, 170. Có chữ rằng "Vạn cảnh giai không" Ai ơi lấy Phật làm lòng, Tự nhiên siêu thoát khỏi trong luân hồi. Đàn chẩn tế vâng lời Phật giáo, Của có chi bát cháo nén nhang, 175. Gọi là manh áo thoi vàng, Giúp cho làm của ăn đường thăng thiên. Ai đến đây dưới trên ngồi lại, Của làm duyên chớ ngại bao nhiêu. Phép thiêng biến ít thành nhiều, 180. Trên nhờ Tôn Giả chia đều chúng sình. Phật hữu tình từ bi phổ độ Chớ ngại rằng có có không không. Nam mô Phật, nam mô Pháp, nam mô Tăng Độ cho nhất thiết siêu thăng thượng đàì Tham khảo thêm Những bài thơ hay của Đỗ Phủ sâu lắng, dạt dào cảm xúc 10 bài thơ hay của Hoàng Nhuận Cầm nổi bật và sâu sắc nhất Top 15+ những bài thơ hay của Xuân Diệu đáng đọc nhất Trên đây là tập hợp những câu thơ hay của Nguyễn Du thâm thúy và sâu sắc nhất. Các bạn có thể chia sẻ nội dung hữu ích này cho người thân và bạn bè cùng tham khảo và sử dụng nhé. ►►CLICK NGAY vào nút TẢI VỀ dưới đây để download Những bài thơ hay của Nguyễn Du giá trị và sâu sắc nhất bạn nên đọc file pdf hoàn toàn miễn phí!
câu thơ về nguyễn du